Hình Ảnh về: Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Hồi Trống Cổ Thành – La Quán Trung – Đề án 2020
Video về: Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Hồi Trống Cổ Thành – La Quán Trung – Đề án 2020
Wiki về Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Hồi Trống Cổ Thành – La Quán Trung – Đề án 2020
Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Hồi Trống Cổ Thành - La Quán Trung - Đề án 2020 -
Tiếng Trống Phố Cổ là tên tác giả đặt cho đoạn trích ngắn ở giữa màn 28, với hai câu tựa:
Chém Sái Dương, huynh đệ hòa giải,
Ở Thành Cổ, tôi là đoàn viên.
Câu thơ trong câu này có nghĩa là trở về chứ không phải là câu thơ bỏ trống như trong tiêu đề của đoạn văn. Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung có nhiều nhân vật nhưng sống động nhất, gây ấn tượng sâu sắc nhất với người đọc là Tào Tháo, Khổng Minh, Quan Công và Trương Phi.
Đoạn trích Hồi trống Thành cổ giàu kịch tính, đậm không khí chiến trận và khí phách anh hùng. Lối kể chuyện của tác giả giản dị, không tô vẽ, không chỉ trích. Linh hồn của đoạn trích kết tụ trong màn đánh trống của Trương Phi. Đã đến lúc tiếng trống nhập quân, cũng là lúc tiếng trống thu quân, tiếng trống thách thức oan gia, đoàn tụ. Nội dung đoạn trích chuyển tải hai ý: Tính cách nóng nảy nhưng tuyệt tình của Trương Phi và ý nghĩa sâu sắc của hồi trống Cố Thành.
Buổi đầu khởi nghiệp, nhà Thục còn yếu. Trong khi đó quân Tào rất mạnh nên quân Thục thua liên tiếp. Lưu Bị cùng Đổng Thừa, Vương Tử Phúc, Quan Công, Trương Phi mưu phản Tào Tháo. Bị lộ, Tào Tháo giết Đổng Thừa rồi kéo hai vạn quân đánh Lưu Bị. Ba anh em Lưu, Quan, Trương thua trận, mỗi người mỗi ngả. Lưu Bị trốn sang Nhữ Nam ở với Viên Thiệu, Quan Công khổ sở ở Thổ Sơn, Trương Phi lánh nạn ở Cổ Thành. Trong lúc hoạn nạn, Quan Công nghe theo lời Trương Liêu đưa hai người vợ của Lưu Bị là Cam phu nhân và Mi phu nhân về ở với Tào Tháo. Tạm đầu hàng Tào Tháo, nhưng Quan Công ra điều kiện nếu biết Lưu Bị ở đâu sẽ lập tức đi tìm.
Biết Lưu Bị đang ở trên đất Viên Thiệu, Quan Công dẫn hai chị dâu đi tìm. Tào Tháo muốn giữ Quan Công để dùng sau nên không cấp chiếu, nhưng cũng không phái tướng đuổi theo. Các tướng của Tào Tháo không cho Quan Công đi qua nên phải mở một con đường đẫm máu để đi. Quan Công phải chém sáu tướng Tào qua năm cửa ải: Qua ải Đông Lĩnh chém Khổng Tử. Đến biên giới Lạc Dương chém Hàn Phúc, Mạnh Thần. Qua Nghi Thủy giết Biện Hỷ. Vượt biên Huỳnh Dương cắt Vương Thực. Đến sông Hoàng Hà và giết Tan Ky.
Đoạn trích kể về cuộc “đụng độ” đặc biệt do hiểu lầm giữa hai anh em sinh đôi là Quan Công và Trương Phi ở Cổ Thành. Trên đường đi Nhữ Nam tìm Lưu Bị, đến Cố Thành, Quan Công hỏi thăm mới biết có Trương Phi ở đó nên mừng lắm. Trương Phi vốn nghi ngờ Quan Công hai lòng nên lầm tưởng Quan Công lừa mình hàng Tào Tháo; nên tức giận không muốn nói tiếp, lớn tiếng mắng mỏ và dọa đánh. Tình cờ lúc đó tướng Tào là Sái Dương dẫn quân đến, Trương Phi càng khẳng định nghi ngờ của mình là đúng.
Thanh Minh không được, Quan Công hứa chém đầu tướng Tào để tỏ lòng thành. Trương Phi tuyên bố sau ba hồi trống, Quan Công phải chém đầu tướng Tào mới tin. Trương Phi vừa dứt một hồi trống thì đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Trương Phi nhất thời nguôi giận, nhưng chỉ nghe tin Sái Dương hầu cận cũng bị Quan Công bắt và kể lại mọi chuyện, Trương Phi mới tin, rơi nước mắt, lạy Vân Trường. Quan Công tiến vào Thành Cổ, “cửa ải thứ sáu” và cũng là phép thử lòng trung thành ghê gớm nhất.
Trương Phi là người ngay thẳng như mũi tên, sáng như gương, không chấp nhận quanh co, gian xảo. Đối với Trương Phi, trắng đen phải rõ ràng; với kẻ thù chỉ có thể nói chuyện với gươm và giáo. Trương Phi tính tình vốn nóng nảy; Thẳng thắn và đơn giản nhưng để xác định Quan Công trung thành hay phản bội Trương Phi lại không hề đơn giản chút nào. Nghe tin Quan Công đến, Trương Phi vô cùng tức giận, trợn mắt ngoác mồm, râu ria xồm xoàm, quát như sấm.
Quan Công hỏi: Hiền huynh sao ngươi lại thế này, há quên nghĩa vườn đào khiến Trương Phi càng thêm giận. Quan Công vốn định nhắc lại chuyện ba anh em kết nghĩa ở vườn đào để chấn chỉnh thái độ hiếu thắng của Trương Phi, không ngờ như đổ thêm dầu vào lửa, khiến Trương Phi càng thêm tức giận. Theo lời kể của Trương Phi, Quan Công có một thời gian chung sống với Tào Tháo, nhận danh nghĩa Tào Tháo là phản quốc. Đã phản bội mà còn dám động đến chuyện huynh đệ kết nghĩa vườn đào thì càng đáng hận, đáng hận. Sự phản bội của Quan Công phải được xử lý theo lời thề trước đây của ông: Nếu ai phản bội lòng tốt của ông, trời và con người cũng sẽ giết anh ta. Hai chị dâu và những lời thanh minh của Tôn Xán cho Quan Công không làm Trương Phi nguôi giận.
– Chờ đã chú Ba, đợi đã! Đừng vội làm ngay. Chú Hai không biết tin tức của mọi người nên phải tạm lánh nạn với Cao. Nay ta biết ngươi sống ở Nhữ Nam, ngươi không ngại nguy hiểm, mang chúng ta tới đây. Bạn không được nghĩ như vậy!
Mi phu nhân cũng nói:
– Chú Hai trước ở Hứa Đô, thật là bất đắc dĩ.
Phi nói:
“Hai người các ngươi bị lừa, trung thần thà chết chứ không chịu nhục, chẳng lẽ đại nhân bái hai chủ?
Quan Công nói:
– Anh đừng nói thế, bất công quá!
Tôn Càn nói:
– Vân Trường đến đây tìm tướng quân.
Trương Phi mắng:
“Ngươi cũng nói láo, hắn bụng dạ không tốt, một đường tới bắt ta!”
Tôn Càn không thể bênh vực Quan Công, Cam phu nhân và Mị phu nhân cũng vô hiệu. Đối với Trương Phi, dù có “trăm nghe” cũng không bằng “trăm thấy”. Trước vấn đề trọng đại, Trương Phi hết sức cẩn trọng. Quan Công nói rõ: Ta đến bắt ngươi, có phải đem theo ngựa quản sao? Trương Phi chỉ phương xa nói: “Không phải ngựa, là cái gì?” Sự hiểu lầm lên đến đỉnh điểm vì một chi tiết ngẫu nhiên: Lúc ấy, tình cờ tướng Tào là Sái Dương dẫn quân truy kích Quan Công đang đến gần. Để xóa bỏ mối nghi ngờ của Trương Phi, Quan Công chỉ còn cách chặt đầu Sái Dương. Trương Phi ra điều kiện bất khả kháng là sau ba hồi trống, Quan Công phải chém đầu tướng Tào Tháo. Nói xong, Trương Phi liền đánh trống bỏ đi. Bao nhiêu uất ức, tức giận của Trương Phi như dồn hết vào cánh tay đánh trống.
Một lúc sau, đầu Sái Dương lăn trên mặt đất. Tưởng rằng mọi chuyện đã sáng tỏ và câu chuyện nhanh chóng đi đến hồi kết nhưng thực tế lại không hề đơn giản. Mãi đến khi nghe tin có binh bị bắt mới biết lý do Sái Dương đến Cổ Thành là truy sát trừng phạt Quan Công giết cháu mình; Rồi Trương Phi cũng hỏi việc ở Hứa Đô, thì Phi mới tin là có thật. Tác giả vẫn chưa để Trương Phi vội tỏ thái độ, nhưng khi vào Cổ Thành, nghe hai chị dâu kể lại những gì Quan Công đã trải qua, Trương Phi nghe được hết sự tình, rưng rưng nước mắt, lạy Vân Trường. Nóng nảy, thô lỗ và tế nhị, dẫu biết là hai nét tính cách đối lập nhau nhưng trong đoạn trích này, chúng lại hiện lên ở cùng một nhân vật Trương Phi.
Trương Phi dùng thủ đoạn tinh vi bắt sống Lưu Đại, tướng giỏi của Tào Tháo, bắt sống Nghiêm Nhan ở đất Ba Thục mà không mất một binh sĩ nào. Cái tế và cái tế (trong cái thô có cái tế) là phép biện chứng của cuộc sống. Thô lỗ và khôn khéo ở đây đều là biểu hiện của lòng trung thành tuyệt đối của Trương Phi. Với Trương Phi, trong tình thế ở Cổ Thành, có lẽ đánh bại Quan Công dễ dàng hơn, đơn giản là để thử lòng trung thành của Quan Công. Cái tài tình của tác giả là tạo ra những tình huống sao cho hai nét tương phản trong tính cách Trương Phi vừa tự nhiên, vừa sinh động, hấp dẫn. Trong đoạn trích “Trống Cổ Thành”, Quan Công rất độ lượng và khiêm tốn thể hiện ở những chi tiết nổi bật như: ngạc nhiên và hoảng sợ trước hành vi của Trương Phi, thái độ nhún mình trước bàn dân thiên hạ. Tôi sốt ruột, cầu cứu hai người chị dâu, chấp nhận những điều kiện khắc nghiệt để được minh oan. Nỗi oan của Quan Công cũng là một nỗi oan đặc biệt: làm quan cho tể tướng, nhưng trái ngược với khí phách của người anh hùng, phải tự mình minh oan bằng tài năng và lòng dũng cảm phi thường.
Để đến được Thành Cổ, Quan Công phải vượt qua nhiều thử thách (năm cửa ải). Những trở ngại trong cuộc hành trình khó khăn này là tướng địch. Ở Cổ Thành, trớ trêu thay, kẻ cản đường quyết liệt lại chính là anh em kết nghĩa! Với tài nghệ chém đầu Sái Dương xuất chúng trong tích tắc, vấn đề Quan Công trung thành hay phản bội đã được làm sáng tỏ. Điều thú vị là tác giả đã đặt Quan Công trong mối quan hệ so sánh với Trương Phi. Người ta khen Quan Công “đại nghĩa”. Nhưng chữ “nghĩa” cũng có hai mặt trung và tín. Trung nghĩa là trung với vua, với lý tưởng phò Hán. Về mặt này, Quan Công tỏ ra kiên định. Tín tức là tin cậy trong quan hệ bạn bè, anh em, Quan Công cũng rất coi trọng điều đó. Đoạn trích có hai nhân vật nhưng Quan Công chỉ là nhân vật làm nền cho tính cách Trương Phi nổi bật.
Cái tên “Cổ Thành” rất thú vị bởi trước hết nó gợi lên không khí chiến trận, ở đây không chỉ có mâu thuẫn chủ yếu giữa Trương Phi và Quan Công, mà còn có mâu thuẫn giữa Quan Công và Sái Dương. Tuy chỉ là mâu thuẫn phụ nhưng không kém phần căng thẳng và điều đáng nói hơn là nó đã làm cho mâu thuẫn chính trở nên quyết liệt hơn. Ba hồi trống còn là điều kiện, hơn nữa, quan tòa nghiêm khắc có quyền phán xét Quan Công trung nghĩa hay bội bạc. Ba điều kiện Trương Phi đặt ra vô cùng khắc nghiệt: Quan Công không những chặt được đầu Sái Dương mà còn phải chém được trong thời gian ngắn nhất. Mặt khác, Sái Dương, một tướng giỏi của Tào Tháo, từng công khai tỏ thái độ không bằng lòng Quan Công, nay lại hạ quyết tâm báo thù cho cháu mình rất cao, đây cũng là một thử thách lớn đối với Quan Công. Nhưng lúc này, khát vọng minh oan đã tăng thêm sức mạnh và tài năng của Quan Công nên Quan Công đã làm một việc ngoài sức tưởng tượng của Trương Phi là chặt đầu Sái Dương trong tích tắc.
Vì vậy, trống Thành Cổ tuy mang đậm không khí trận mạc nhưng lại rất khác so với trống trận thông thường. Nó đã trở thành biểu tượng của lòng trung thành, lòng dũng cảm và thái độ công bằng, chính trực. Thành Cổ có thể coi là thử sáu, nhưng lại là cửa ải tinh thần, thử lòng trung nghĩa. Với tài năng của Quan Công, việc vượt qua năm cửa ải còn lại dễ dàng hơn rất nhiều. Trong tình thế “danh chính ngôn thuận” thì việc biện minh và giải quyết khúc mắc trong suy nghĩ, tình cảm của một người nóng nảy như Trương Phi là điều vô cùng khó khăn. Hiểu lầm của Trương Phi với Quan Công đều có lý do cụ thể và đã được giải tỏa. Nhưng điều đáng quý là qua sự hiểu lầm đó, tác giả đã nảy sinh mâu thuẫn có tính nguyên tắc: không thể điều hòa được giữa ý chí bất khuất và sự đầu hàng, giữa lòng trung thành và sự phản bội. nhiều.
Đoạn trích Hồi trống Thành Cổ có kết cấu hoàn chỉnh như một vở kịch. Đặc điểm nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết cổ điển là mỗi màn thường là một câu chuyện có mở đầu và có kết thúc. Bài thuyết trình giới thiệu các nhân vật, sự kiện và hoàn cảnh. Phần mở đầu ở đây là từ sự hiểu lầm dẫn đến mâu thuẫn giữa Trương Phi và Quan Công. Phần phát triển là sự xuất hiện đột ngột của Sái Dương, đánh dấu cao trào của mâu thuẫn. Việc Quan Công chém đầu Sái Dương là điểm mở đầu cho mâu thuẫn được giải quyết. Sau khi tác giả giới thiệu nhân vật và sự việc, một xung đột mở ra, rồi xung đột được đẩy lên cao trào và được giải quyết bằng một hành động quyết liệt.
Chỉ qua một đoạn trích ngắn là “Trống Cổ Thành” mà hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã được tác giả khắc họa một cách nổi bật với vẻ đẹp sáng ngời của lòng tin, sự trung thực và chân thành của tình anh em. Là một tiểu thuyết khai thác đề tài trận mạc, nhưng Tam Quốc Diễn Nghĩa đã để lại nhiều bài học về đạo đức, lối sống, cách ứng xử của người quân tử phương Đông, lấy các chuẩn mực đạo đức làm người, lễ nghĩa, lễ nghĩa…. Trí, tín của Nho giáo là nền tảng. tiêu chuẩn.
[box type=”note” align=”” class=”” width=””]
Tiếng Trống Phố Cổ là tên tác giả đặt cho đoạn trích ngắn ở giữa màn 28, với hai câu tựa:
Chém Sái Dương, huynh đệ hòa giải,
Ở Thành Cổ, tôi là đoàn viên.
Câu thơ trong câu này có nghĩa là trở về chứ không phải là câu thơ bỏ trống như trong tiêu đề của đoạn văn. Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung có nhiều nhân vật nhưng sống động nhất, gây ấn tượng sâu sắc nhất với người đọc là Tào Tháo, Khổng Minh, Quan Công và Trương Phi.
Đoạn trích Hồi trống Thành cổ giàu kịch tính, đậm không khí chiến trận và khí phách anh hùng. Lối kể chuyện của tác giả giản dị, không tô vẽ, không chỉ trích. Linh hồn của đoạn trích kết tụ trong màn đánh trống của Trương Phi. Đã đến lúc tiếng trống nhập quân, cũng là lúc tiếng trống thu quân, tiếng trống thách thức oan gia, đoàn tụ. Nội dung đoạn trích chuyển tải hai ý: Tính cách nóng nảy nhưng tuyệt tình của Trương Phi và ý nghĩa sâu sắc của hồi trống Cố Thành.
Buổi đầu khởi nghiệp, nhà Thục còn yếu. Trong khi đó quân Tào rất mạnh nên quân Thục thua liên tiếp. Lưu Bị cùng Đổng Thừa, Vương Tử Phúc, Quan Công, Trương Phi mưu phản Tào Tháo. Bị lộ, Tào Tháo giết Đổng Thừa rồi kéo hai vạn quân đánh Lưu Bị. Ba anh em Lưu, Quan, Trương thua trận, mỗi người mỗi ngả. Lưu Bị trốn sang Nhữ Nam ở với Viên Thiệu, Quan Công khổ sở ở Thổ Sơn, Trương Phi lánh nạn ở Cổ Thành. Trong lúc hoạn nạn, Quan Công nghe theo lời Trương Liêu đưa hai người vợ của Lưu Bị là Cam phu nhân và Mi phu nhân về ở với Tào Tháo. Tạm đầu hàng Tào Tháo, nhưng Quan Công ra điều kiện nếu biết Lưu Bị ở đâu sẽ lập tức đi tìm.
Biết Lưu Bị đang ở trên đất Viên Thiệu, Quan Công dẫn hai chị dâu đi tìm. Tào Tháo muốn giữ Quan Công để dùng sau nên không cấp chiếu, nhưng cũng không phái tướng đuổi theo. Các tướng của Tào Tháo không cho Quan Công đi qua nên phải mở một con đường đẫm máu để đi. Quan Công phải chém sáu tướng Tào qua năm cửa ải: Qua ải Đông Lĩnh chém Khổng Tử. Đến biên giới Lạc Dương chém Hàn Phúc, Mạnh Thần. Qua Nghi Thủy giết Biện Hỷ. Vượt biên Huỳnh Dương cắt Vương Thực. Đến sông Hoàng Hà và giết Tan Ky.
Đoạn trích kể về cuộc “đụng độ” đặc biệt do hiểu lầm giữa hai anh em sinh đôi là Quan Công và Trương Phi ở Cổ Thành. Trên đường đi Nhữ Nam tìm Lưu Bị, đến Cố Thành, Quan Công hỏi thăm mới biết có Trương Phi ở đó nên mừng lắm. Trương Phi vốn nghi ngờ Quan Công hai lòng nên lầm tưởng Quan Công lừa mình hàng Tào Tháo; nên tức giận không muốn nói tiếp, lớn tiếng mắng mỏ và dọa đánh. Tình cờ lúc đó tướng Tào là Sái Dương dẫn quân đến, Trương Phi càng khẳng định nghi ngờ của mình là đúng.
Thanh Minh không được, Quan Công hứa chém đầu tướng Tào để tỏ lòng thành. Trương Phi tuyên bố sau ba hồi trống, Quan Công phải chém đầu tướng Tào mới tin. Trương Phi vừa dứt một hồi trống thì đầu Sái Dương đã rơi xuống đất. Trương Phi nhất thời nguôi giận, nhưng chỉ nghe tin Sái Dương hầu cận cũng bị Quan Công bắt và kể lại mọi chuyện, Trương Phi mới tin, rơi nước mắt, lạy Vân Trường. Quan Công tiến vào Thành Cổ, “cửa ải thứ sáu” và cũng là phép thử lòng trung thành ghê gớm nhất.
Trương Phi là người ngay thẳng như mũi tên, sáng như gương, không chấp nhận quanh co, gian xảo. Đối với Trương Phi, trắng đen phải rõ ràng; với kẻ thù chỉ có thể nói chuyện với gươm và giáo. Trương Phi tính tình vốn nóng nảy; Thẳng thắn và đơn giản nhưng để xác định Quan Công trung thành hay phản bội Trương Phi lại không hề đơn giản chút nào. Nghe tin Quan Công đến, Trương Phi vô cùng tức giận, trợn mắt ngoác mồm, râu ria xồm xoàm, quát như sấm.
Quan Công hỏi: Hiền huynh sao ngươi lại thế này, há quên nghĩa vườn đào khiến Trương Phi càng thêm giận. Quan Công vốn định nhắc lại chuyện ba anh em kết nghĩa ở vườn đào để chấn chỉnh thái độ hiếu thắng của Trương Phi, không ngờ như đổ thêm dầu vào lửa, khiến Trương Phi càng thêm tức giận. Theo lời kể của Trương Phi, Quan Công có một thời gian chung sống với Tào Tháo, nhận danh nghĩa Tào Tháo là phản quốc. Đã phản bội mà còn dám động đến chuyện huynh đệ kết nghĩa vườn đào thì càng đáng hận, đáng hận. Sự phản bội của Quan Công phải được xử lý theo lời thề trước đây của ông: Nếu ai phản bội lòng tốt của ông, trời và con người cũng sẽ giết anh ta. Hai chị dâu và những lời thanh minh của Tôn Xán cho Quan Công không làm Trương Phi nguôi giận.
– Chờ đã chú Ba, đợi đã! Đừng vội làm ngay. Chú Hai không biết tin tức của mọi người nên phải tạm lánh nạn với Cao. Nay ta biết ngươi sống ở Nhữ Nam, ngươi không ngại nguy hiểm, mang chúng ta tới đây. Bạn không được nghĩ như vậy!
Mi phu nhân cũng nói:
– Chú Hai trước ở Hứa Đô, thật là bất đắc dĩ.
Phi nói:
“Hai người các ngươi bị lừa, trung thần thà chết chứ không chịu nhục, chẳng lẽ đại nhân bái hai chủ?
Quan Công nói:
– Anh đừng nói thế, bất công quá!
Tôn Càn nói:
– Vân Trường đến đây tìm tướng quân.
Trương Phi mắng:
“Ngươi cũng nói láo, hắn bụng dạ không tốt, một đường tới bắt ta!”
Tôn Càn không thể bênh vực Quan Công, Cam phu nhân và Mị phu nhân cũng vô hiệu. Đối với Trương Phi, dù có “trăm nghe” cũng không bằng “trăm thấy”. Trước vấn đề trọng đại, Trương Phi hết sức cẩn trọng. Quan Công nói rõ: Ta đến bắt ngươi, có phải đem theo ngựa quản sao? Trương Phi chỉ phương xa nói: “Không phải ngựa, là cái gì?” Sự hiểu lầm lên đến đỉnh điểm vì một chi tiết ngẫu nhiên: Lúc ấy, tình cờ tướng Tào là Sái Dương dẫn quân truy kích Quan Công đang đến gần. Để xóa bỏ mối nghi ngờ của Trương Phi, Quan Công chỉ còn cách chặt đầu Sái Dương. Trương Phi ra điều kiện bất khả kháng là sau ba hồi trống, Quan Công phải chém đầu tướng Tào Tháo. Nói xong, Trương Phi liền đánh trống bỏ đi. Bao nhiêu uất ức, tức giận của Trương Phi như dồn hết vào cánh tay đánh trống.
Một lúc sau, đầu Sái Dương lăn trên mặt đất. Tưởng rằng mọi chuyện đã sáng tỏ và câu chuyện nhanh chóng đi đến hồi kết nhưng thực tế lại không hề đơn giản. Mãi đến khi nghe tin có binh bị bắt mới biết lý do Sái Dương đến Cổ Thành là truy sát trừng phạt Quan Công giết cháu mình; Rồi Trương Phi cũng hỏi việc ở Hứa Đô, thì Phi mới tin là có thật. Tác giả vẫn chưa để Trương Phi vội tỏ thái độ, nhưng khi vào Cổ Thành, nghe hai chị dâu kể lại những gì Quan Công đã trải qua, Trương Phi nghe được hết sự tình, rưng rưng nước mắt, lạy Vân Trường. Nóng nảy, thô lỗ và tế nhị, dẫu biết là hai nét tính cách đối lập nhau nhưng trong đoạn trích này, chúng lại hiện lên ở cùng một nhân vật Trương Phi.
Trương Phi dùng thủ đoạn tinh vi bắt sống Lưu Đại, tướng giỏi của Tào Tháo, bắt sống Nghiêm Nhan ở đất Ba Thục mà không mất một binh sĩ nào. Cái tế và cái tế (trong cái thô có cái tế) là phép biện chứng của cuộc sống. Thô lỗ và khôn khéo ở đây đều là biểu hiện của lòng trung thành tuyệt đối của Trương Phi. Với Trương Phi, trong tình thế ở Cổ Thành, có lẽ đánh bại Quan Công dễ dàng hơn, đơn giản là để thử lòng trung thành của Quan Công. Cái tài tình của tác giả là tạo ra những tình huống sao cho hai nét tương phản trong tính cách Trương Phi vừa tự nhiên, vừa sinh động, hấp dẫn. Trong đoạn trích “Trống Cổ Thành”, Quan Công rất độ lượng và khiêm tốn thể hiện ở những chi tiết nổi bật như: ngạc nhiên và hoảng sợ trước hành vi của Trương Phi, thái độ nhún mình trước bàn dân thiên hạ. Tôi sốt ruột, cầu cứu hai người chị dâu, chấp nhận những điều kiện khắc nghiệt để được minh oan. Nỗi oan của Quan Công cũng là một nỗi oan đặc biệt: làm quan cho tể tướng, nhưng trái ngược với khí phách của người anh hùng, phải tự mình minh oan bằng tài năng và lòng dũng cảm phi thường.
Để đến được Thành Cổ, Quan Công phải vượt qua nhiều thử thách (năm cửa ải). Những trở ngại trong cuộc hành trình khó khăn này là tướng địch. Ở Cổ Thành, trớ trêu thay, kẻ cản đường quyết liệt lại chính là anh em kết nghĩa! Với tài nghệ chém đầu Sái Dương xuất chúng trong tích tắc, vấn đề Quan Công trung thành hay phản bội đã được làm sáng tỏ. Điều thú vị là tác giả đã đặt Quan Công trong mối quan hệ so sánh với Trương Phi. Người ta khen Quan Công “đại nghĩa”. Nhưng chữ “nghĩa” cũng có hai mặt trung và tín. Trung nghĩa là trung với vua, với lý tưởng phò Hán. Về mặt này, Quan Công tỏ ra kiên định. Tín tức là tin cậy trong quan hệ bạn bè, anh em, Quan Công cũng rất coi trọng điều đó. Đoạn trích có hai nhân vật nhưng Quan Công chỉ là nhân vật làm nền cho tính cách Trương Phi nổi bật.
Cái tên “Cổ Thành” rất thú vị bởi trước hết nó gợi lên không khí chiến trận, ở đây không chỉ có mâu thuẫn chủ yếu giữa Trương Phi và Quan Công, mà còn có mâu thuẫn giữa Quan Công và Sái Dương. Tuy chỉ là mâu thuẫn phụ nhưng không kém phần căng thẳng và điều đáng nói hơn là nó đã làm cho mâu thuẫn chính trở nên quyết liệt hơn. Ba hồi trống còn là điều kiện, hơn nữa, quan tòa nghiêm khắc có quyền phán xét Quan Công trung nghĩa hay bội bạc. Ba điều kiện Trương Phi đặt ra vô cùng khắc nghiệt: Quan Công không những chặt được đầu Sái Dương mà còn phải chém được trong thời gian ngắn nhất. Mặt khác, Sái Dương, một tướng giỏi của Tào Tháo, từng công khai tỏ thái độ không bằng lòng Quan Công, nay lại hạ quyết tâm báo thù cho cháu mình rất cao, đây cũng là một thử thách lớn đối với Quan Công. Nhưng lúc này, khát vọng minh oan đã tăng thêm sức mạnh và tài năng của Quan Công nên Quan Công đã làm một việc ngoài sức tưởng tượng của Trương Phi là chặt đầu Sái Dương trong tích tắc.
Vì vậy, trống Thành Cổ tuy mang đậm không khí trận mạc nhưng lại rất khác so với trống trận thông thường. Nó đã trở thành biểu tượng của lòng trung thành, lòng dũng cảm và thái độ công bằng, chính trực. Thành Cổ có thể coi là thử sáu, nhưng lại là cửa ải tinh thần, thử lòng trung nghĩa. Với tài năng của Quan Công, việc vượt qua năm cửa ải còn lại dễ dàng hơn rất nhiều. Trong tình thế “danh chính ngôn thuận” thì việc biện minh và giải quyết khúc mắc trong suy nghĩ, tình cảm của một người nóng nảy như Trương Phi là điều vô cùng khó khăn. Hiểu lầm của Trương Phi với Quan Công đều có lý do cụ thể và đã được giải tỏa. Nhưng điều đáng quý là qua sự hiểu lầm đó, tác giả đã nảy sinh mâu thuẫn có tính nguyên tắc: không thể điều hòa được giữa ý chí bất khuất và sự đầu hàng, giữa lòng trung thành và sự phản bội. nhiều.
Đoạn trích Hồi trống Thành Cổ có kết cấu hoàn chỉnh như một vở kịch. Đặc điểm nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết cổ điển là mỗi màn thường là một câu chuyện có mở đầu và có kết thúc. Bài thuyết trình giới thiệu các nhân vật, sự kiện và hoàn cảnh. Phần mở đầu ở đây là từ sự hiểu lầm dẫn đến mâu thuẫn giữa Trương Phi và Quan Công. Phần phát triển là sự xuất hiện đột ngột của Sái Dương, đánh dấu cao trào của mâu thuẫn. Việc Quan Công chém đầu Sái Dương là điểm mở đầu cho mâu thuẫn được giải quyết. Sau khi tác giả giới thiệu nhân vật và sự việc, một xung đột mở ra, rồi xung đột được đẩy lên cao trào và được giải quyết bằng một hành động quyết liệt.
Chỉ qua một đoạn trích ngắn là “Trống Cổ Thành” mà hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã được tác giả khắc họa một cách nổi bật với vẻ đẹp sáng ngời của lòng tin, sự trung thực và chân thành của tình anh em. Là một tiểu thuyết khai thác đề tài trận mạc, nhưng Tam Quốc Diễn Nghĩa đã để lại nhiều bài học về đạo đức, lối sống, cách ứng xử của người quân tử phương Đông, lấy các chuẩn mực đạo đức làm người, lễ nghĩa, lễ nghĩa…. Trí, tín của Nho giáo là nền tảng. tiêu chuẩn.
[/box]
#Tổng #hợp #các #bài #văn #nghị #luận #về #tác #phẩm #Hồi #Trống #Cổ #Thành #Quán #Trung #Đề #án
#Tổng #hợp #các #bài #văn #nghị #luận #về #tác #phẩm #Hồi #Trống #Cổ #Thành #Quán #Trung #Đề #án
[rule_1_plain]